Trước đó, tháng 7-2022, ông Nguyễn Thành Phong đã có đơn xin thôi làm đại biểu HĐND thành phố khóa X do chuyển công tác về Ban Kinh tế Trung ương và sinh sống toàn thời gian tại Hà Nội. Ông Nguyễn Thành Phong được HĐND TP HCM đồng ý cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu HĐND
Đến ngày 24-8, HĐND TP.HCM khóa X, nhiệm kỳ 2021-2026 đã miễn nhiệm chức chủ tịch UBND TP.HCM đối với ông Nguyễn Thành Phong để nhận nhiệm vụ phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Ông vẫn là đại biểu HĐND TP.HCM. Ông Nguyễn Thành Phong sinh năm 1962, quê Bến Tre, có trình độ tiến sĩ kinh tế.
truyen.com he thong truyen online lon nhat vietnam gom du the loai truyen ke ca truyen Audio, truyen nguoi lon 18+ , truyen kiem Nguyễn Thị Thu Huệ Trần Thị Bảo Châu: Truyện Dài: Tóc Mây Một Thời (8 tập) - View: 5678: Diệu Hạnh: Truyện Dài: Bông cúc trắng - View: 502: Nguyễn Thế Duyên: Truyện
Ngày 23/8, tại Phủ Tổng thống Entebbe, ông Nguyễn Nam Tiến, Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Thống nhất Tanzania kiêm nhiệm Cộng hòa Uganda đã trình Thư ủy
Thời gian làm quan ở Huế, Nguyễn Du sống cuộc đời bình dị ở xóm dệt vải làng Vạn Xuân thuộc phường Kim Long bên dòng sông Bạch Yến, một nhánh sông Hương. "Nguyễn Du có bản lý lịch rất phức tạp song vua vẫn trọng dụng. Nếu xưa kia, Gia Long không tin tưởng ông thì có lẽ đã không có truyện Kiều ra đời", nhà nghiên cứu Dương Phước Thu nói.
Xem thêm về Hội Sinh viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQG TP. Hồ Chí Minh trên Facebook BẠN CẦN ĐỌC KỸ - Thời gian tham gia: Từ 12/10/2022 đến 18h00 ngày 15/10/2022 (Thứ 7) Địa điểm: Phòng I23, Cơ sở 1 (227 Nguyễn Văn Cừ, phường 4, quận 5, TP. Hồ Chí Minh). Đối
Zmy8i. I. Những nét chính về tác giả Nguyễn Du 1. Thời đại 2. Tác giả Nguyễn DuII. Những nét chính về tác phẩm “Truyện Kiều” 1. Nguồn gốc lai lịch và sự sáng tạo của Nguyễn Du 2. Tóm tắt 3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuậtIII. Tổng Kết I. Những nét chính về tác giả Nguyễn Du 1. Thời đại – Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại lịch sử cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đầy những biến động dữ dội. + Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn đến Lê – Trịnh suy tàn. + Phong trào nông dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị và đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh. + Nhà Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ, nhà Nguyễn lên trị vì. => Tất cả những biến động đó đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con người Nguyễn Du. 2. Tác giả Nguyễn Du Cuộc đời – Nguyễn Du 1765 – 1820, tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. – Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống hiếu học. + Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm. + Anh trai cùng cha khác mẹ – Nguyễn Khản cũng làm đến chức Tham Tụng ngang với Tể Tướng. – Ông sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long sầm uất, phồn hoa, đô thị. => Ngay từ rất sớm Nguyễn Du đã được tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ của thời đại, cũng như kế thừa được truyền thống văn hóa thi thư của gia đình. – Song tuổi thơ của Nguyễn Du không hẳn là bình yên, êm ả mà trải qua khá nhiều những thăng trầm, mất mát + Năm 10 tuổi ông mồ côi cha. + Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ. + Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản. – Do những xoay vần, biến động dữ dội của lịch sử, gia đình Nguyễn Du cũng sớm rơi vào sa sút. + Khi triều Lê – Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc 10 năm gió bụi, rồi về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng bấn và tủi nhục. + Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, ông chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820. => Cuộc đời Nguyễn Du kinh qua đầy những thăng trầm, biến động. Song, tất cả góp phần tạo nên dấu ấn cho những tác phẩm nổi tiếng và có giá trị sâu sắc của ông. Con người – Nguyễn Du là người thông minh, tài trí, có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, lại sinh ra và lớn lên ở những nơi được coi là cái nôi văn hóa của đất nước. – Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là “mười năm gió bụi”, được tiếp xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong phú và niềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị. – Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông năng khiếu văn học. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim giàu yêu thương và một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân. – Ông là người thanh liêm và có nhân cách sống cao thượng. Trước tình hình rối ren, nhũng nhiễu của bọn quan lại, chỉ biết vinh thân phì gia, ông đã hết sức khinh bỉ. Sự nghiệp văn chương – Nguyễn Du – Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc. – Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du gồm những tác phẩm được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và đều đạt đến trình độ cổ điển. + Các tập thơ chữ Hán Có 3 tập, gồm 243 bài Thanh Hiên thi tập; Nam trung thi tập; Bắc hành tạp lục. + Các tác phẩm chữ Nôm Có 2 kiệt tác Văn tế thập loại chúng sinh và Đoạn trường tân thanh “Truyện Kiều”. => Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du không phải là quá đồ sộ về mặt số lượng, song nó đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa thời đại để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung. Tham khảo thêm bài soạn Nguyễn Du và Truyện Kiều II. Những nét chính về tác phẩm “Truyện Kiều” 1. Nguồn gốc lai lịch và sự sáng tạo của Nguyễn Du – “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ XIX 1805 – 1809. Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu. – “Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc Kim Vân Kiều Truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân – một tác phẩm văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Sau đó, được Nguyễn Du “hoán cốt đoạt thai”. Lúc đầu truyện có tên là “Đoạn trường tân thanh” Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. – Với cảm hứng nhân đạo cao cả và xuất phát từ thực tế cuộc sống, xã hội, con người Việt Nam, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc đáo cho tác phẩm. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn viết nên một tác phẩm trữ tình bằng chữ Nôm; sử dụng thể thơ của dân tộc; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình;… => “Truyện Kiều” xứng đáng là đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh hoa văn hóa ánh mãi ngàn đời. Và đúng như giáo sư Đào Duy Anh viết “Nếu Nguyễn Trãi với “Quốc âm thi tập” là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với “Truyện Kiều” lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta”. 2. Tóm tắt Phần thứ nhất Gặp gỡ và đính ước Gia đình Vương Viên Ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người con Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng – một con người hào hoa, phong nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước chung thủy với nhau suốt đời. Phần thứ hai Gia biến và lưu lạc Kim Trọng về chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết. Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai nàng nương nhờ cửa Phật. Phần thứ ba Đoàn tụ Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm được nhau và đoàn tụ với gia đình. 3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật Giá trị nội dung a. Giá trị hiện thực – Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội bất công, tàn bạo. Nơi mà các tầng lớp thống trị và các thế lực hắc ám sẵn sàng chà đạp lên quyền sống của con người. + Đó là một xã hội đảo điên, nơi mà đồng tiền lên ngôi và có giá trị vạn năng. Trong tác phẩm, đã 17 lần Nguyễn Du tập trung để nói về sự hung hiểm, hai mặt của đồng tiền, trong đó có thể kể đến câu “Trong tay đã có đồng tiền/ Giàu lòng đổi trắng thay đen khó gì?”… + Đó là một xã hội đầy rẫy nhưng kẻ lưu manh, côn đồ, đội lốt người để ức hiếp, bóc lột, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm của những người hiền lành, lương thiện Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư, Ưng Khuyển,… + Đó là xã hội mà bọn quan lại ngang ngược, tham lam, lật lọng, là nguồn gốc cho mọi sự xấu xa, bất công, bỉ ổi Tổng đốc Đại thần Hồ Tôn Hiến, đại diện cho triều đình, nhưng lại hèn hạ, phản trắc, lừa giết một người đã quy hàng Từ Hải. + Đó là một xã hội không có công lí, pháp luật hay sự công bằng. Nó dễ dàng bị đồng tiền mua chuộc, dễ dàng đổi trắng thay đen và tiếp tay cho mọi sự xấu xa hoành hành Gia đình Kiều bị đổ oan, bị bắt bớ, tra tấn nhưng công lí chỉ xuất hiện khi “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. – “Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều. + Bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người Quyền được yêu, quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc gia đình. + Nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo và tàn nhẫn Kiều bị coi như một món hàng, có thể mua đi bán lại và bị đánh đập tàn nhẫn “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” là sự tổng kết đau đớn về cuộc đời Kiều sau 15 năm đoạn trường. b. Giá trị nhân đạo Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương diện sau => “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người. + “Truyện Kiều” thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, hồn nhiên, trong sáng, thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hạnh phúc gia đình còn khắc nghiệt Kim Trọng và Thúy Kiều đã dám bước qua bức tường phong kiến kiên cố để tiến đến một tình yêu tự do họ gặp gỡ và chủ động thề nguyền, đính ước. + “Truyện Kiều” thể hiện khát vọng về một xã hội công bằng, dân chủ, tự do không còn bất công, tù túng, ngột ngạt Người anh hùng Từ Hải chính là đại diện cho khát vọng tự do, công lí đã dám đứng lên để chống lại cả một xã hội cũ kỹ, thối nát, tàn bạo. + “Truyện Kiều” ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người Vẻ đẹp của tài sắc, trí thông minh, sự chung thủy, lòng hiếu thảo, đức vị tha… mà Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó. => “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, cảm thông với nỗi đau khổ của con người mà đặc biệt là người phụ nữ Trước hết là ông dành cho Thúy Kiều bằng cái lòng cảm thương sâu sắc nhất; sau đó là ông dành cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến niềm cảm thương lớn lao “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. – “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người. => “Truyện Kiều” đã truyền tải được những tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tiến bộ và giàu tính chiến đấu để xứng đáng trở thành kiệt tác ngàn đời. Giá trị nghệ thuật “Truyện Kiều” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc trên các phương diện a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh. – Nghệ thuật kể chuyện đa dạng Trực tiếp lời nhân vật, gián tiếp lời tác giả, nửa trực tiếp lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật. – Nghệ thuật xây dựng nhân vật Hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng với cách xây dựng nhân vật điển hình, có tính cách riêng độc đáo, sinh động. + Miêu tả ngoại hình nhân vật bằng thủ pháp nghệ thuật ++ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp ước lệ Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; còn nhân vật Từ Hải “Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. ++ Nhân vật phản diện được xây dựng theo lối hiện thực bằng biện pháp cụ thể Miêu tả nhân vật Tú Bà, Nguyễn Du viết “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?”. + Miêu tả ngoại hình để tái hiện lên tính cách nhân vật ++ Ngoại hình Thúy Vân “Vân xem trang trọng khác vời/ Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang” gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, quý phái. ++ Ngoại hình Thúy Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa cảm. + Miêu tả ngoại hình để tiên đoán về số phận nhân vật ++ Miêu tả Thúy Vân “Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” đã tiên đoán về một cuộc đời êm đềm, ít sóng gió. ++ Miêu tả Thúy Kiều “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” cho thấy sự hậm hực, “ghen”, “hờn” của tạo hóa trong câu thơ đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, gian truân phía trước đang chờ Kiều. + Miêu tả ngôn ngữ, hành động để gợi tính cách nhân vật ++ Miêu tả Từ Hải “Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”, hành động dứt khoát, mạnh mẽ của một đấng trượng phu. ++ Miêu tả Mã Giám Sinh “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, hành động huênh hoang, thô lỗ, hợm hĩnh của “quân buôn người”. + Miêu tả nhân vật qua diễn biến nội tâm Tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Kiều trước lầu Ngưng Bích “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”… – Nghệ thuật tả cảnh độc đáo + Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên ++ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chi tiết tạo hình “Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. ++ Tả cảnh thiên nhiên bằng cách điểm nhấn Chỉ tả một vài chi tiết đặc sắc nhưng vẽ lên một khung cảnh tuyệt đẹp “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. ++ Tả cảnh thiên nhiên trong những thời gian và không gian khác nhau “Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về”. + Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ++ Mượn và tả cảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng, cảm xúc của nhân vật “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. ++ Khung cảnh thiên nhiên được tả qua tâm trạng của nhân vật “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. b. Nghệ thuật ngôn từ và thể loại đạt đến đỉnh cao – Ngôn từ “Truyện Kiều” là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm. – Ngôn ngữ “Truyện Kiều” không chỉ có chức năng biểu đạt phản ánh, biểu cảm bộc lộ cảm xúc mà còn có chức năng thẩm mĩ vẻ đẹp của ngôn từ. – Ngôn ngữ “Truyện Kiều” kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa hàm súc vừa trang nhã, giản dị. – Sử dụng thể thơ lục bát – thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao. => “Truyện Kiều” xứng đáng trở thành kiệt tác số một, là “quốc hồn quốc túy” của nền văn học dân tộc. III. Tổng Kết – Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam. – “Truyện Kiều” đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật để xứng đáng là kiệt tác của muôn đời. Làm chủ kiến thức Ngữ văn 9 – Luyện thi vào 10 Tác giả Phạm Trung Tình
Nguyễn Du là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Với nhiều năm hoạt động trong sự nghiệp cầm bút, Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Hãy cùng tìm hiểu tóm tắt về cuộc đời và thân thế, sự nghiệp sáng tác văn học đại thi hào Nguyễn Du ngay trong bài viết dưới đây nhé! Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Trãi Giá trị hiện thực trong tác phẩm Truyện Kiều - Nguyễn Du Nhà thơ Trần Tế Xương - Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác văn học 1. Tiểu sử Nguyễn Du 3 tháng 1 năm 1766 – 1820 tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào dân tộc" và được UNESCO vinh danh là "Danh nhân văn hóa thế giới". Năm 1803, khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Chu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử. Nhờ thời kỳ đi giang hồ, Nguyễn Du đã thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng nay thuộc Hà Nội, ông được đặc cách lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805, ông được thăng Đông các học sĩ, tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807, ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808, ông xin về quê nghỉ. Năm 1809, ông được bổ chức Cai bạ hàm Tứ phẩm ở Quảng Bình. Năm 1813, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ chính Tam phẩm và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814, ông đi sứ về, được thăng Lễ bộ hữu Tham tri tòng Nhị phẩm. Năm 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam. Năm 1820, vua Gia Long qua đời, Nguyễn Phúc Đảm nối ngôi, tức vua Minh Mạng. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch tả chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 16 tháng 9 năm 1820 lúc 54 tuổi. Năm 1824, di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. 2. Phong cách sáng tác Trong sáng tác, Nguyễn Du rất đề cao cảm xúc, là một nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững rất nhiều thể thơ của Trung Quốc thế nên hầu hết ở bất cứ thể loại thơ nào ông cũng có thể hoàn thành tác phẩm một cách xuất sắc. Nhắc đến Nguyễn Du không ai là không nhớ đến tài năng làm thơ bằng chữ Nôm và đỉnh cao trong đó là tác phẩm Truyện Kiều, đã cho thấy được tài năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện và thơ. Thơ và truyện của ông luôn nhiều màu sắc đặc biệt, sức sống dồi dào, đường nét phong phú. Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được nhà nho là Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du Nhà xuất bản Văn hóa, 1959 chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài. Tác phẩm Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19 khoảng 1805 – 1809. Tác phẩm được sáng tác dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều Truyện” của Trung Quốc, tác phẩm bao gồm 3254 câu thơ lục bát. Truyện Kiều có giá trị nghệ thuật và giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm tố cáo, lên án xã hội cũ, một chế độ phong kiến thời xưa quá thối nát. Giá trị nhân văn được thể hiện ở chỗ Nguyễn Du đã thành công thể hiện được sự xót thương và tình cảm của mình dành cho Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bạc phận, bị tước đi quyền làm người, quyền mưu cầu hạnh phúc. Những biện pháp nghệ thuật được sử dụng như ẩn dụ, tả cảnh, ngụ tình và những tình huống truyện vô cùng độc đáo. Từ những chi tiết đó dù trải qua lớp bụi của thời gian Truyện Kiều vẫn là một tác phẩm kinh điển, làm nên tên tuổi và để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. 3. Nhận định về Nguyễn Du và tác phẩm của ông Hồn Nguyễn Du phảng phất mỗi trang Kiều. – Khuyết danh Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn. – Chế Lan Viên Truyện Kiều là một tiếng kêu thương, một bản tố cáo, một giấc mơ… một cái nhìn bế tắc. – Hoài Thanh Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng những vật có chất độc. – Huỳnh Thúc Kháng Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với Truyện Kiều lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta. Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, có thể nói rằng ngôn ngữ Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về chất và đã tỏ rõ khả năng biểu hiện đầy đủ và sâu sắc. – Đào Duy Anh 4. Vinh danh Hiện nay có rất nhiều trường học, thành phố tại Việt Nam mang tên Nguyễn Du. Những tác phẩm của ông vẫn được bạn đọc lưu truyền đến ngày nay. Hy vọng bài viết này sẽ giúp bạn đọc có thể hiểu thêm về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du, chúc bạn có kết quả học tập tốt!
Cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn DuVnDoc mời các bạn cùng tham khảo bài viết Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của danh nhân Nguyễn TrãiTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình ThiTiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Bằng ViệtTruyện Kiều - Nguyễn DuNguyễn Du là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Nguyễn Du rất đề cao cảm xúc, là một nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững rất nhiều thể thơ của Trung Quốc thế nên hầu hết ở bất cứ thể loại thơ nào ông cũng có thể hoàn thành tác phẩm một cách xuất sắc. Nhắc đến Nguyễn Du không ai là không nhớ đến tài năng làm thơ bằng chữ Nôm và đỉnh cao trong đó là tác phẩm Truyện Kiều, đã cho thấy được tài năng truyền tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện và nhiều năm miệt mài trong sự nghiệp cầm bút, Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam một khối lượng tác phẩm đồ sộ. Trong bài viết này VnDoc mời các bạn cùng tìm hiểu về tiểu sử cuộc đời cũng như sự nghiệp đại thi hào Nguyễn Tóm tắt tiểu sử Nguyễn DuThân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du- Quê Tiền Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh- Sinh trưởng trong 1 gia đình đại quý tộc nhiều đời làm quan và truyền thống văn chương- Sống trong 1 giai đoạn lịch sử đầy biến động- Cuộc đời đầy những bước thăng trầm- Có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hoá dân tộc và văn hoá Trung Quốc- Trái tim giàu tình yêu thương- Một thiên tài văn học, nhà nhân đạo, chủ nghĩa, danh nhân văn hoá. Có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam2. Truyện Kiều - Đoạn trường tân thanh- Là kiệt tác văn học với sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Du- Dựa theo cốt truyện "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm tài nhân- Gồm 3254 câu thơ lục bát- Gồm 3 phần+ Gặp gỡ và đính ước+ Gia biến và lưu lạc+ Đoàn tụ2. Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn DuNguyễn Du tự là Nhữ Hiền; 1809–1868 là một danh thần triều Nguyễn, hy sinh trong trận quân Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa. Ông cũng chính là em của danh tướng Nguyễn Tri PhươngÔng sinh ngày 21 tháng chạp năm Kỷ Tỵ 1809, tại làng Đường Long tức Chí Long, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Thuở nhỏ ông thông minh, hiếu học, năm Đinh Dậu 1837 đỗ Tú tài, năm Thiệu Trị nguyên niên đậu Cử nhân khoa Tân Sửu 1841. Năm sau Nhâm Dần 1842, thi Đình đậu Tam giáp đồng tiến 1843, ông được bổ dụng làm Biên tu ở Nội các, năm sau thăng Tu soạn, năm 1845 được bổ Tri phủ Tân An ở Gia Định, năm 1847 chuyển về làm Tri phủ Quảng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Cùng trong năm này, thân phụ ông mất, ông phải về cư tang. Đến năm sau 1848, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng 1851, ông được thăng Tập hiền viện Thị độc sung giảng sách ở Tòa Kinh diên. Năm 1852, ông làm Thị giảng học sĩ. Cùng năm này ông được sung vào phái bộ đi sứ sang Trung Quốc. Sau khi đi sứ về, ông được thăng hàm Hồng lô tự khanh, sung chức Biện lý bộ Lại kiêm Nội các, làm việc tại triều 1856, tàu chiến Pháp đến khiêu khích ở Đà Nẵng, ông được phái vào giúp Tổng đốc Quảng Nam là Đào Trí lo chống giặc. Năm 1860 thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định, ông sung chức Gia Định Quân thứ Tán lý quân vụ trông coi việc quân 16 tháng giêng năm Tân Dậu tức ngày 25 tháng 2 năm 1861, Trung tướng Hải quân Pháp là Charner đánh phá Đại đồn Chí Hòa do anh Nguyễn Duy là Nguyễn Tri Phương trấn giữ. Dưới áp lực của quân Pháp, ông chiến đấu anh dũng và hy sinh tại trận một lần với Tôn Thất Trì. Riêng Nguyễn Tri Phương và Phạm Thế Hiển thì bị thương. Cuối cùng Nguyễn Tri Phương rút được về Biên khi ông mất, triều đình truy tặng hàm Binh bộ Tả tham tri và được thờ tại đền Trung Nghĩa, Trung Hiếu cùng anh là Nguyễn Tri Phương và cháu là Phò mã Nguyễn Du chữ Hán 阮攸; 1765–1820 [1] là một nhà thơ Việt Nam. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh.Nguyễn Du tên tự là Tố Như 素如, tên hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp đờiÔng quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời thơ ấu ở Thăng Long. Ông thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt cha là Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm làm tới tể tướng dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc Nguyễn Nghiễm có 8 vợ, 21 người con. Anh khác mẹ con bà chính của ông là Toản Quận Công Nguyễn Khản làm tới Tham Tụng, Thái Bảo trong 1771, ông cùng gia đình Tể tướng Nguyễn Nghiễm chuyển về ở làng Tiên 1775, lúc 10 tuổi Nguyễn Du mồ côi 1778, lúc mười ba tuổi mồ côi mẹ, ông phải ra Thăng Long ở với anh cả là Nguyễn Khản. Được vài năm, Nguyễn Du trở về làng Tiên Điền ở với người chú là Tiến sĩ Nguyễn 1783, Nguyễn Du thi hương tại trường thi Nghệ An và đậu Tam trường. Vì lẽ gì không rõ, ông không tiếp tục thi lên nữa, mà đi nhận một chức quan võ ở Thái Nguyễn, kế chân người cha nuôi của ông vừa mới từ 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân nhà Thanh. Nguyễn Du, vì tư tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây năm 1789 đến năm 1795, ông sống ở Thái Bình- quê 1796 Nguyễn Du dự định vào Gia Định cộng tác với Chúa Nguyễn, âm mưu bị bại lộ, bị nhà Tây Sơn bắt giam ba thể Nguyễn Du đã thai nghén Truyện Kiều vào thời gian này; năm đó Nguyễn Du đúng 30 tuổi "Trải qua một cuộc bể dâu" - một bể dâu bằng khoảng 30 năm [2].Nhưng theo Giáo sư Nguyễn Lộc "Từ điển Văn học" tập II - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1984 trang 455 viết "Đoạn trường tân thanhđoạn trường đứt ruột; tân thanh tiếng mới. là một truyện thơ Nôm viết bằng thể lục bát, dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc 1814-20. Có thuyết nói Nguyễn Du viết trước khi đi sứ, có thể vào thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình 1804-09. Thuyết sau này được nhiều người chấp nhận" [3].Chi tiết xem thêm bài Truyện KiềuTừ 1797 đến năm 1804 Nguyễn Du ẩn dật tại Tiên Nguyễn Phúc Ánh lật đổ nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản, rồi mời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông bắt đầu vào Huế làm quan với nhà Nguyễn và được thăng Đông Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ Hữu Tham công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ông thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc Đại Nam Liệt Truyện "Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì..."Năm 1820, Minh Mạng lên ngôi, cử ông đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì ông đột ngột qua Nam Liệt Truyện viết "Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói "được" rồi mất; không trối lại điều gì."Tác phẩm tiêu biểuNgoài Truyện Kiều nổi tiếng ra, Nguyễn Du còn để lạiVăn Tế Thập Loại Chúng SinhVăn Tế Sống Hai Cô Gái Trường LưuThác Lời Trai Phường Nón bằng chữ NômBa tập thơ chữ Hán điển hìnhThanh Hiên Thi TậpNam Trung Tạp NgâmBắc Hành Tạp LụcCác bài thơ khácCảm Hứng Trong TùĐầu Sông Chơi DạoĐứng Trên Cầu Hoàng Mai Buổi ChiềuĐêm Đậu Thuyền Cửa Sông Tam GiangĐêm Rằm Tháng Giêng Ở Quỳnh CôiLưu Biệt Anh NguyễnMộ Đỗ Thiếu Lăng Ở Lôi DươngMiếu Thờ Mã Phục Ba Ở Giáp ThànhNgày Thu Gởi HứngNói Hàn Tín Luyện QuânNgười Hát Rong Phủ Vĩnh BìnhNgồi Một Mình Trong Thủy CácNgựa Bỏ Bên ThànhNgày Xuân Chợt HứngLong Thành Cẩm Giả CaTranh Biệt Cùng Giả NghịQua Sông Hoài Nhớ Thừa Tướng VănXúc Cảm Đình Ven SôngViếng Người Con Hát Thành LaTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Du. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Giải bài tập Toán lớp 9, Trắc nghiệm Tiếng Anh 9, Lý thuyết môn Vật lí lớp 9, Giải Tập bản đồ Lịch Sử lớp 9 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ Tể tướng, tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần 1740 - 1778, con gái một người làm chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng. Năm Đinh Hợi 1767, khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tòng nhất phẩm, tức Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú thi hào Nguyễn Giáp Ngọ 1774, cha Nguyễn Du được phong chức Tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ sinh 1757 qua đời, Năm 1776 Bính Thân cha Nguyễn Du qua đời, Năm 1778 Mậu Tuất bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều sinh năm 1745 được bổ làm Trấn thủ Hưng Canh Tý 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ Nam Định nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại tức Toản Quận công, còn Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Quý Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường Tú tài. Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề sinh 1761 đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên cử Nhân và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng. Tháng 2 năm 1784, kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ Quỳnh Côi, Thái Bình.Tháng mười, năm Tân Hợi 1791, anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy. Năm 1793 Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái tử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm 1794 Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Đông năm Bính Thìn 1796, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng Cảm hứng trong tù. Mùa thu năm Nhâm Tuất 1802, Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng nay thuộc Hà Nội . Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ hàm Ngũ phẩm, tức Du Đức hầu và vào nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ. Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ hàm Tứ phẩm ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ hàm Tam phẩm. Năm Bính Tý 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng 1820 Canh Thìn Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn 18-9-1820 thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hương Trà gần sau chùa Thiện Mụ. Năm Giáp Thân 1824, người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Xuất thân trong một gia đình quý tộc giàu sang, thế mà cơn lốc lịch sử đã hất đổ hết lầu son gác tía, đẩy ông vào cuộc đời sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Nhưng bi kịch lớn nhất là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, không có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đầy đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ chữ Hán Nguyễn Du có 3 tập thơ Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân 1786 – 1804. Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn 1805 – 1813. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc 1813 – 1814, tổng cộng 250 bài. Thơ chữ Hán có những kiệt tác như Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trông thấy Sở kiến hành, Bài ca người gảy đàn đất Long Thành Long Thành cầm giả ca, Người hát rong ở Thái Bình Thái Bình mại ca giả, Chống lại bài “ Chiêu hồn” Phản “chiêu hồn”…Thơ chữ Nôm Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, ông còn có một số tác phẩm đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Những sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh những thành tựu chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế
và thời đại của chúng ta Phạm Cao DươngThời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán thế kỷ thứ hai mươi, tiền bán thế kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay đã có nhưng hiện chưa được khám phá, chắc chắn còn có nhiều giá trị hơn gấp bội. Mong lắm thay! Trong hầu hết các tác phẩm viết về Văn Học Sử Việt Nam, Nguyễn Du thường được xếp vào thời Nguyễn Sơ hay Tiền Bán Thế Kỷ 19. Sự sắp xếp này có lẽ đã được căn cứ vào thời gian nhà đại thi hào của chúng ta sáng tác Truyện Kiều sau chuyến ông đi sứ nước Tầu về, tức sau năm 1813. Sắp xếp như vậy tôi nghĩ không được hợp lý và quá tùy thuộc vào các yếu tố chính trị và vào sự phân định thời gian theo lối Tây Phương. Lý do là vì sắp xếp và phân định thời gian trong văn học sử không nhất thiết phải gò bó một cách cứng nhắc y như sự sắp xếp trong sử học, đành rằng ngay trong sử học, nhất là lịch sử văn minh, khi nói tới Thế Kỷ 19, người ta không bắt buộc phải nghĩ rằng thế kỷ này phải bắt đầu vào năm 1800 và chấm dứt vào năm 1899, cũng như Triều Nguyễn phải bắt đầu vào năm 1802. Tất cả đều có thể sớm hơn hay trễ hơn tùy từng khía cạnh hay cách nhìn của sử gia về mỗi vấn đề, mỗi tác giả. Lý do rất đơn giản một tác phẩm văn học, đặc biệt tác phẩm văn học lớn thường phản ảnh hoàn cảnh chính trị và xã hội của cả thời đại của tác giả. Đối với Truyện Kiều, được viết sau năm 1813 không có nghĩa là chỉ thuộc Thế Kỷ 19, chỉ thuộc Thời Nguyễn Sơ. Trái lại, đại tác phẩm này phải được coi là đã thành hình từ nhiều chục năm trước đó và được kết tinh trong thập niên thứ hai của Thế Kỷ 19, dưới thời Nhà Nguyễn. Nó không phải chỉ phản ảnh cuộc đời và tâm sự riêng của Nguyễn Du mà còn phản ảnh cuộc đời và tâm sự chung của một phần không nhỏ những người thuộc thế hệ ông, những người sinh trưởng ở Bắc Hà trong hậu bán Thế Kỷ 18, dưới thời Lê - Trịnh và còn tiếp tục sống trong những thập niên đầu của Thế Kỷ 19 dưới thời Nguyễn Sơ. Phạm Quý Thích và hơn hai chục ông nghè khác của Triều Lê chẳng hạn. Gia dĩ ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn là tác giả của nhiều tác phẩm khác không kém giá trị ngoài tính phổ thông trong dân gian của chúng, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mà các sư ở các chùa ở Miền Bắc luôn luôn ngâm đọc với một giọng điệu vô cùng đau thương và thảm thiết trong ngày Rằm Tháng Bảy, ngày cúng cô hồn, chẳng hạn. Trong bài này, tôi muốn cùng bạn đọc nhìn lại thời đại của Nguyễn Du và những ảnh hưởng của những gì đã xảy ra ở thời này đối với cuộc đời, tâm tư và sự nghiệp của tiên sinh, đồng thời so sánh phần nào thời đại đó với thời đại của chúng ta hiện tại với một ước vọng trong những năm tới đây chúng ta có thể chứng kiến sự ra đời của không phải của một mà nhiều tác phẩm lớn nếu không hơn thì ít ra cũng không kém tác phẩm của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh. Tất nhiên ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Nhưng ước vọng thì cứ ước lịch sử Việt Nam từ Thế Kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen tối hơn thời kỳ của những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945. Nguyễn Du đã sống trong những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và chúng ta đã sống trong những chục năm sau Thế Chiến Thứ Hai. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Du có thể nói là một người đã sống một cuộc sống đau thương nhất, u buồn nhất, do đó đã mang một tâm sự u uẩn nhất, xót xa nhất. Còn trong lịch sử dân tộc, chúng ta là những kẻ đã phải gánh chịu hay được chứng kiến nhiều cảnh đổ vỡ, chia ly éo le nhất, từ đó đã mang những niềm đau khắc khoải nhất, thầm kín nhất, đặc biệt là những người đã có cái may, hay không may sinh ra và trưởng thành trong những năm trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và hiện tại vẫn còn đang sống. Nguyễn Du cũng là người có cái may đồng thời cũng là cái không may tương tự. Hai đại biến cố, hai cuộc đời cách nhau ngót hai trăm năm, tuy mang những tính cách đặc thù của những biến cố và những sự thực lịch sử vẫn có những tác động giống nhau đối với nội tâm của con người. Có khác chăng là ở thời Nguyễn Du mọi chuyện chỉ xảy ra quanh quẩn trong nội địa của nước Việt Nam và giữa người Việt Nam với nhau. Còn ở thời đại chúng ta mọi chuyện đã xảy ra trên một bình diện lớn lao hơn, cổ kim chưa từng có, là khắp thế giới. Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã bẩy tung hàng triệu người Việt ra khắp địa cầu để đến bây giờ, bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba sau Tây Lịch, một học sinh Việt Nam đã có thể hãnh diện được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ!” thay thế cho một học sinh người Anh hồi cuối Thế Kỷ 19, với tất cả những cái may cũng như những cái không may của sự kiện lịch sử này. Sinh năm 1765, dưới thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, trong một gia đình cha, chú, anh, em đều thi đậu và làm quan to vào bậc nhất phẩm đương thời. Nguyễn Du đã có dịp sống cuộc đời niên thiếu của một công tử con nhà thế gia, vọng tộc ở chốn kinh đô ngàn năm văn vật, vào lúc cơ nghiệp của hai họ Lê, Trịnh còn tương đối vững chãi, chưa có gì báo trước một sự xụp đổ trong tương lai. Ông hãy còn được thấy tận mắt hay được nghe nói về cuộc sống nghiêm ngặt hay nhàn rỗi, xa hoa ở các cung vua, phủ chúa vào lúc nước nhà vô sự như được tả trong Thượng Kinh Ký Sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác 1720 – 1791 hoặc Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ 1768 – 1839, mặc dầu cha mẹ mất sớm và mặc dầu không được thành công lắm trên đường khoa hoạn. Nhưng kể từ khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mất 1782, thế đứng của hai họ Lê, Trịnh đã bắt đầu suy sụp. Kiêu Binh làm loạn 1784 và Tây Sơn ra Bắc 1786 – 1787 đã chấm dứt triều đại Nhà Lê sau ngót bốn trăm năm trị vì kể từ khi Lê Thái Tổ đánh đuổi Quân Minh dựng nên nghiệp lớn 1428 -1787 và làm xụp đổ ngôi chúa của họ Trịnh. Tố Như Tiên Sinh lúc ấy mới có 22, 23 tuổi. Cuộc đời đầy u buồn, bất đắc chí, xen lẫn với những nuối tiếc của ông bắt đầu từ khi ông phải tản cư về ẩn náu ở quê vợ thuộc xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình ngày nay, xa hẳn đất kinh kỳ, nơi sau này chỉ còn là cảnhThiên niên cự thất thành quan đạo, Nhất phiến tân thành một cố cung. Thăng Long IDinh xưa cung cũ còn đâu?Mà nay đường trước thành sau khác rồi! Hoa Đăng dịchhayTương thức mỹ nhân khan bão tử,Đồng du hiệp thiếu tận thành đẹp buổi xưa đều bế trẻ,Bạn chơi thuở nhỏ thẩy thành ông!Quách Tấn dịchkhi Nguyễn Du “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” Bạc đầu còn được thấy Thăng Long nhân chuyến đi sứ Nhà Thanh vào năm 1813 có dịp ghé hết, sự đổi chủ đã không diễn ra một cách êm đềm mà trong cảnh “Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời” với những “ Bãi sa trường thịt nát máu rơi” để “Phơi thây trăm họ nên công một người” đã liên tiếp xảy ra mà Nguyễn Du đã tả trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Nguyễn Hữu Chỉnh, người bạn giao du thân thiết với anh em họ Nguyễn, người được coi là thiên tài vô song của đất Bắc Hà, đã bị xé xác, phơi thây, bào huynh của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh cũng bị Tây Sơn giết chết. Anh em xưa kia quây quần đông đúc, nay ly tán mỗi người một phương, còn chính Nguyễn Du cũng đã hơn một lần bị Tây Sơn bỏ ngục. Cuối cùng vào năm 1796, tiên sinh đã phải bỏ tất cả, trở về sống ở chốn cố hương, ngày ngày đi săn để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn một lòng tưởng nhớ tới Nhà Lê với một tâm sự mà Hồng Liên Lê Xuân Giáo, một trong những vị túc nho lão thành đã di tản sang sống ở San Diego trong thời đại của chúng ta, đã so sánh với tâm trạng của Đặng Dung, xuyên qua hai câu thơ trong bài Thuật Hoài của vị nghĩa sĩ của Thời Hậu Trần nàyTrí chủ hữu hoài phù địa trục,Tẩy binh vô lộ vãn thiên khiêng trái đất mong phò chúa,Giáp gột sông trời khó vạch mây.Phan Kế Bính dịchVới một lòng ước vọng không bao giờ đạt được là “Muốn ra tay tát cạn Biển Đông”. Có điều là vận của Nhà Lê đã hết. Năm 1802, Gia Long thống nhất đất nước. Người ẩn sĩ đã không sao ẩn được danh mình vào lúc toàn thể non sông đã đổi chủ, vào lúcTrời Đông Phố ào ào gió động,Hội tao phùng đái ủng tân quân.Bùi Kỷ, Văn Tế Tiên Điền Nguyễn DuĐể cuối cùng thấy mình “dật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay” hay “Hàng thần lơ láo” và chẳng biết “phận mình ra đâu”. Bị triệu vời với đích danh, Nguyễn Du đã phải ra làm quan với Nhà Nguyễn một cách miễn cưỡng trong nhiều năm ròng rã. Cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình bằng cách đau mà không chịu uống thuốc. Nếu lập một bảng đối chiếu đại cương thời đại Nguyễn Du với thời đại chúng ta hiện tại, ta có thể thấy vô số những điểm tương đồng. Cũng với đất nước bị chia đôi với con Sông Gianh được thay thế bằng Sông Bến Hải. Cũng một xã hội tuy không cường thịnh nhưng những gì các thế hệ trước để lại vẫn còn nguyên vẹn, với những thành trì, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, đền miếu, tập tục, lễ nghi, văn chương đạo đức... mà một dân tộc văn minh phải lấy làm hãnh diện. Cũng với những mốc thời gian then chốt, 1784 và 1787 cho thời Nguyễn Du và 1945, 1975 cho thời hiện tại. Cũng với những đổi thay và đổi đời vĩ đại, khủng khiếp cho một con người bình thường, với những cảnh “thất thế tên rơi, đạn lạc”, “máu tuôn lai láng , xương khô rụng rời” trên mặt đất, hay những trường hợp “đem thân chôn giấp vào vòng kình nghê” trên mặt biển, đặc biệt là của những thành phần xưa kia “phong gấm rủ là”, “màn lan trướng huệ”, “cung quế phòng hoa”. Nhưng ở thời đại chúng ta còn ngang trái, bi thảm hơn nhiều. Người anh hùng đất Bình Định, sau khi diệt Nhà Lê, đã đánh dấu triều đại của mình bằng chiến thắng vĩ đại ở Gò Đống Đa, tiếp đó đã khơi dậy trong lòng dân tộc mình một tinh thần tự tin và tự chủ qua dự định lấy lại Lưỡng Quảng về cho đất nước, do đó đã được một phần dân chúng Bắc Hà chấp nhận. Những kẻ xâm chiếm Miền Nam năm 1975 đã không làm nên điều gì mọi người mong đợi. Trái lại, chiến thắng của họ đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến một tình trạng càng ngày càng tăm tối, tồi tệ hơn. Ở thời đại Nguyễn Du, tuy bất đắc dĩ phải phục vụ tân quân và tân triều, nhưng các sĩ phu Bắc Hà thời ông đã được phục vụ với đầy đủ danh dự như là những quan lại, kể cả quan lại cao cấp của Triều Đình Huế. Ở thời đại của chúng ta, những kẻ hậu duệ của Tố Như Tiên Sinh cũng phải miễn cưỡng ra phục vụ triều đại mới nhưng là phục vụ trong những trại tù khổ sai được những kẻ chiến thắng, giả nhân, giả nghĩa gọi là lao động cải tạo hoặc đem thân ra làm thuê, làm mướn nơi đất khách, quê người để nhà cầm quyền lấy tiền trả nợ, hay lên các vùng kinh tế mới ở với rắn và gió, trong những căn lều không vách... Ở thời đại Nguyễn Du không có những trận đói trong đó nhiều làng một mạng sống không còn để những thành phần chống đối chính quyền đương nhiệm có cơ lợi dụng. Ở thời đại chúng ta không ai có thể quên được Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 khiến hai triệu người bị chết. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện vu cáo và thanh toán lẫn nhau bằng kết tội nhau là Việt gian, phản động và thủ tiêu nhau vô tội vạ. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện Tự Vệ Vũ Trang với những cuộn dây thừng để bắt Việt gian, với Công An chận đường bắt cóc mang đi mất tích hay đương đêm vào nhà bắt người mang đi rồi ít ngày sau nạn nhân chỉ còn mình một nơi, đầu một nẻo với một bản án gắn trên ngực, không có chuyện đồng chí con, đồng chí bố, vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha, không có Đảng, không có Cách Mạng có quyền sinh sát trong tay để khoan hồng hay bắt người đền tội. Ở thời đại Nguyễn Du không có những cuộc chiến triền miên kéo dài cả ba chục năm mà vẫn chưa hoàn toàn kết thúc với ba, bốn và có thể năm triệu người chết và không biết bao nhiêu triệu người đau khổ. Ở thời Nguyễn Du biến loạn chỉ ảnh hưởng giới hạn trong giới cầm quyền hay lãnh đạo. Ở thời Nguyễn Du chiến tranh chỉ xẩy ra ở kinh đô và một số những địa điểm quan trọng. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh xả ra ở khắp các làng xã, các hang cùng ngõ hẻm, thậm chí cả những vùng rừng núi, những thôn bản xa xôi, trước kia rất ít người các miền đồng bằng lui tới. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh là chiến tranh toàn diện, không một người dân nào, dù là đàn bà, con trẻ, những kẻ khố rách, áo ôm, những người cùng đinh trong xã hội, bằng cách này hay cách khác, không bị cuốn hút vào cuộc chiến, sau đó là sự cưỡng chiếm miền Nam của người Cộng Sản miền Bắc và cuộc ra đi tị nạn của hàng triệu dân Việt trong suốt hơn bốn chục năm và ảnh hưởng của nó trên toàn cầu, cùng với lối trả thù những người bị kẹt lại một cách vô cùng hiểm độc, dã man, khó có thể tưởng tượng được bởi những người Cộng Sản miền Bắc sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Tất cả đã dẫn tới hai phong trào dời bỏ quê hương mà Phạm Duy, trong bài 1954 Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước đã diễn tả bằng những câu hát như Một ngày năm bốn cha bỏ Sơn TâyDắt díu con thơ vô sống nơi Biên HòaDù là xa đó vẫn là nước nhàMột mảnh đất thân yêu gia đình ta. ............ Một ngày bảy lăm con đứng ở cuối đườngLoài quỷ dữ xua con ra đại dươngMột ngày bảy lăm con bỏ nước ra điHai mươi năm là hai lần ta biệt xứGiờ cha lưu đầy ở ngay trên nước taVà giờ con lưu đầy ở đây nơi xứ lạ...Cuối cùng là sự thành hình của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại với nhiều hứa hẹn sẽ trở thành thành phần thứ hai của Dân Tộc Việt Nam độc lập với thành phần ở trong nước mà tôi gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam của Thiên Niên Kỷ Thứ Ba với Thế Kỷ 21 là thời kỳ chuyển so sánh kể trên nếu chỉ được đặt ra một cách đơn thuần, nói chung, có thể bị cho là không cần thiết, đặc biệt là đối với những người thường lưu tâm đến sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du, nói riêng, ai cũng có thể làm được. Nhưng tôi đã lựa chọn nó để trình bày ở đây vì từ trước tới giờ tôi luôn luôn thắc mắc là ở thời Lê Mạt, một thời không có gì đáng gọi là huy hoàng của lịch sử dân tộc, đứng trên bình diện chính trị, ngoại giao hay quân sự , trái lại đó là một thời kỳ đại loạn, thế mà trong thời này lại có nhiều tác phẩm lớn, bất hủ xuất hiện. Thời của chúng ta so với thời Lê Mạt còn tệ hại hơn nhiều. Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng trong thời hiện tại đã có những công trình nào đáng kể xuất hiện chưa và trong tương lai liệu có tác phẩm nào xuất hiện không? Nguyễn Du với những tâm sự u uẩn bời bời, chất chứa trong lòng từ nhiều chục năm, sau chuyến đi sứ sang Tầu của ông đã để lại cho hậu thế những áng văn vô giá, bất hủ. Người Việt chúng ta trong thời đại mới cũng có dịp xuất ngoại và xuất ngoại ra nhiều hơn là ra một nước Trung Hoa và lưu lại suốt đời hơn là một thời gian đi sứ ngắn ngủi. Liệu rằng trong những năm, những chục năm sắp tới, điều người ta mong đợi có xảy ra không? Câu hỏi này cho đến nay chưa có câu trả lời, nhưng tôi tin tưởng rằng một khi được tìm tòi sẽ có rất nhiều hy vọng là sẽ có, nhất là ở các anh em trẻ vì anh em vừa được sống, vừa được học hỏi. Thời Nguyễn Du, Tiên Sinh và những người đồng thời với Tiên Sinh chỉ được biết có một nước Tầu. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta được biết nhiều hơn một nước Pháp hay một nước Mỹ, một nước Nga hay một nước Tầu. Hơn thế nữa, trong thời đại Nguyễn Du, Nguyễn Du và các cựu thần Nhà Lê khác đã mang những mặc cảm tội lỗi với triều đại cũ, những bạn bè xưa và với chính mình. Những Nhà Nho này đã hơn một lần bị đưa ra làm đề tài chế diễu. Trong thời đại của chúng ta, không thiếu những anh em, bà con của chúng ta mang những tâm sự đau lòng của những kẻ bất đắc dĩ phải đào tẩu, bỏ lại cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, chiến hữu, thuộc cấp đã từng nhiều năm sát cánh chiến đấu với mình, che chở đùm bọc cho mình và đào tẩu bằng những phương tiện của người bạn cũ mà mình cho là đã phản bội mình, đào tẩu với một ý thức rõ ràng là hành động này sẽ làm cho phần đất mà mình phải bảo vệ sụp đổ mau chóng hơn. Sau đó tất cả đều đã phải tranh đấu, vật lộn để tồn tại, để hướng về tương lai, tương lai cho chính mình, cho con cháu mình và tương lai cho cả tập thể mình với những nỗi lòng không dễ gì bày tỏ cùng ai được, chẳng khác gì những miếng cơm, ngụm nước mà không thiếu gì những bà con vượt biển của chúng ta đã phải nghẹn ngào nuốt nước mắt, xót xa, tủi nhục khi nhận lãnh từ tay đám hải tặc trước đó đã làm hại đời một bài tham luận đăng trên tờ Hành Trình do Nhà Văn Cao Thế Dung chủ trương ở Thủ Đô Washington trước đây, tôi có đưa ra một nhận xét về “Bi thảm tính trong văn hóa Việt Nam” và cho rằng đặc tính này là một trong những đặc tính của văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó đã làm cho nền văn hóa của dân tộc ta trở nên vô cùng phong phú, vô cùng sâu sắc và hấp dẫn sau một bề ngoài có vẻ u buồn, thiếu những mầu sắc vui tươi so với nhiều văn hóa khác. Nguyễn Du là một trong những bằng chứng của bi thảm tính đó. Nhưng tác phẩm của ông sở dĩ mang đặc tính ấy và trở nên muôn đời bất hủ là vì nó phản ảnh cuộc đời và thời đại của tác giả, một cuộc đời và một thời đại đầy dẫy những bi thảm và ngang trái. Thời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán Thế Kỷ Thứ Hai Mươi, tiền bán Thế Kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay chưa được khám phá, chắc chắn còn có giá trị hơn gấp bội. Có điều ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Đời người quá ngắn ngủi mà những gì người ta ước mong được thấy hay muốn làm thì nhiều, đúng như nhà thơ nổi tiếng của văn học miền Nam và hải ngoại, Tô Thùy Yên, người mới từ giã chúng ta để về nơi miên viễn, đã than trong bài hành bất hủ "Ta Về" của ôngTa về như hạc vàng thương nhớMột thuở trần gian bay lướt quaTa tiếc đời ta sao hữu hạnĐành không trải hết được lòng ta!Và người ta không khỏi không nghĩ tới tâm sự đầy u uẩn của Nguyễn DuBất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khấp Tố Như!Ba trăm năm lẻ về sau,Hỏi ai người nhỏ lệ sầu Tố NhưNgười dịch, không rõCòn Tô Thùy Yên thì tuy bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng, âm thầm chấp nhận nhưng bề trong không phải là không xót xa, oán hậnTa về một bóng trên đường lớnThơ chẳng ai đề vạt áo phaiSao bỗng nghe đau mềm phế phủMười năm đá cũng ngậm ngùi thay!Với gần mười ba năm tù, Tô Thùy Yên đã phải sống gần hết thời gian đẹp nhất của cuộc đời trong trại tù khổ sai không có án. Hai chữ “mười năm” đã trở thành nỗi ám ảnh không rời đối với ông khiến ông đã nhiều lần nhắc tới trong bài thơ trường thiên ông làm kể trênVĩnh biệt ta mười năm chết dấpChốn rừng thiêng im tiếng nghìn thuMười năm mặt sạm soi khe nướcTa hóa thân thành vượn cổ sơ!Mười năm thế giới già trông thấyĐất bạc màu đi, đất bạc màuMột đời được mấy điều mong ước?Núi lở sông bồi đã lắm khi…Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng độngMười năm, cổ lục đã ai ghi? Mười năm chớp bể mưa nguồn đóNgười thức nghe buồn tận cõi dốc hơi thu lùa nỗi nhớMười năm người tỏ mặt nhau đâyTa nhớ người xa ngoài nỗi năm ta vẫn cứ là kể lại mười năm mộng dữMột lần kể lại để rồi thôiHoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?Mười năm, cây có nhớ người xa?Mười năm con đã già trông thấyHuống mẹ cha, đèn sắp cạn dầuTa về như nước Tào Khê chảyTinh đẩu mười năm luống nhạt cuối cùng thì tác giả đành mượn chén rượu để giải oanChút rượu hồng đây xin rưới xuốngGiải oan cho cuộc biển dâu này!Nguyễn Du may mắn hơn. Thời đại của Tiên Điền tiên sinh chưa có trại tù cải tạo. Không những không bị đi tù, trái lại, ông còn được trịnh trọng mời ra hợp tác với tân triều và lãnh những trách vụ quan trọng ở triều đình, kể cả đi điều, đúng như lời Tản Đà của nửa đầu thế kỷ trước, cuối cùng tất cả chỉ còn làCửa động, đầu non, đường lối cũNghìn năm thơ thẩn bóng trăng Phạm Cao DươngKhởi viết cuối Thu 1982 nhân Ngày kỷ niệm Thi hào Nguyễn Dutại Quận Cam California, Hoa KỳSửa chữa và phổ biến đầu hè 2019
Bạn đang quan tâm đến Tóm Tắt Tiểu Sử Nguyễn Du phải không? Nào hãy cùng đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy! Đại thi hào Nguyễn Du – Danh nhân văn hóa thế giới, là một trong những tác giả tiêu biểu nhất trên văn đàn Việt Nam. Với khối lượng tác phẩm đồ sộ, Nguyễn Du đã trở thành lịch sử và một huyền thoại, đặc biệt với tác phẩm Truyện Kiều đã đưa văn học Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Sau đây là chi tiết vềcuộc đời và sự nghiệp văn chương của đại thi hào Nguyễn DuCó thể bạn quan tâm Hội chứng trái tim tan vỡ có là thật? Hướng Dẫn Sử Dụng Excel 2010 Qua Hình Ảnh Trong Excel 2007, 2010 Hướng Dẫn Adobe After Effect, 50 Bài Hướng Dẫn After Effect Xuất Sắc ĐƯỜNG CHÍ TUYẾN LÀ GÌ Kiên nhẫn là gì? Đặc điểm và cách rèn luyện tính kiên nhẫn Tóm lược tiểu sử cuộc đời Nguyễn Du Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766? -1820 tự là Tố Như 素如, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc” và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới“. Ông có một cuộc đời vô cùng gian truân và cực đang xem Tiểu sử của nguyễn du Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống. cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa đang xem Tóm tắt tiểu sử nguyễn du Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi. Năm 1780 , khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý” Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe sử gọi là “kiêu binh” không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh . Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã. Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường tú tài, sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà không rõ tên ở Thái Nguyên , không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên. Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên . Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau Năm 1803 đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc. Xem Thêm Đá Phò Là Gì? Tìm Hiểu Về Hành Động NàyNăm 1805 thăng hàm Đông Các điện học sĩ. Năm 1807 làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương. Năm 1809 làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Sau khi đi sứ về vào năm 1814 , ông được thăng Hữu tham tri Bộ thêm Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng 1791-1840 lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820. Lúc đầu 1820, Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền Hà Tĩnh. Sự nghiệp văn học của đại thi hào Nguyễn Du Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh xem Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.” Tác phẩm bằng chữ Hán Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du NXB Văn hóa, 1959 chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau Xem Thêm TÍCH TRONG TOÁN HỌC LÀ GÌThanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập Tập thơ của Thanh Hiên gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn. Nam trung tạp ngâm Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm Bắc hành tạp lục Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Tác phẩm bằng chữ Nôm Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có Đoạn trường tân thanh còn có tên gọi khác là Kim Vân Kiều truyện,Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều, được viết bằng chữ Nôm, gồm câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học bộ mới ghi “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc 1814-1820, có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình 1804-1809. Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”. Văn chiêu hồn tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa Văn tế mười loại chúng sinh, còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn. Vài nét về tác phẩm truyện Kiều – tác phẩm tiêu biểu nhất của đại thi hào Nguyễn Du Đoạn trường tân thanh, thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3254 câu. Câu chuyện dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một thi sĩ thời nhà Minh, Trung Quốc. Tác phẩm kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình để cứu gia đình. Để cứu cha và em trai khỏi tù, cô bán mình kết hôn với một người đàn ông trung niên, không biết rằng anh ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu thêm Các Món Ngon Từ Cá Basa Kho Ngon Đậm Vị, Cách Chế Biến Cá Basa Đúng Cách Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam. Nguồn Danh mục Kiến thức Vậy là đến đây bài viết về Tóm Tắt Tiểu Sử Nguyễn Du đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!
thời đại nguyễn du